Võ công Cái_Bang

Ưu điểm của võ công Cái Bang là có tính thực dụng và thực tiễn cao. Không duy trì, giữ gìn lễ nghi và lề thói như những môn phái khác của Bách Đạo. Võ công của Cái Bang chuyên đánh lạc hướng đối phương, nên thoạt nhìn nó có vẻ lén lút hèn hạ. Thế nhưng, ẩn bên trong nó là triết lý của những bậc thầy không màng tới thế sự. Võ công Cái Bang không ảo diệu và khoa trương, mà hướng đến hiệu quả. Trong các loại võ công, võ công Cái Bang chỉ có mấy ưu điểm được bổ sung là mang tính lịch sử và truyền thống (Đả Cẩu Bổng Pháp hay Giáng Long Thập Bát Chưởng). Do đó, hầu hết những đệ tử đều bị nguy hiểm vì chạy theo lợi ích lớn mà từ bỏ thân thể mình.

Cái Bang Chưởng Pháp - Hàng long thập bát chưởng

Cao thủ Cái bang càng đánh càng dồi dào sức lực, khi sinh mệnh lâm nguy võ công được phát huy tới mức tột đỉnh.Đệ tử Cái bang thiện chiến giáp lá cà, đồng thời né tránh đòn đánh gần rất lanh lẹ. Những kẻ ra đòn nặng với đệ tử Cái bang đều phải chuốc lấy phần thiệt. Họ càng ra nhiều đòn liên hoàn, công lực càng tăng lên gấp bội và có thể kết liễu kẻ địch từ xa. Đến khi nhận ra ý đồ của họ, kẻ địch tiến thoái lưỡng nan, chạy trốn không được mà chống cự cũng không nổi.

Võ công tuyệt học của Cái Bang Chưởng pháp là Hàng long thập bát chưởng, còn gọi là Giáng Long Thập Bát Chưởng, môn võ công trấn phái của Cái Bang. Hàng Long Thập Bát Chưởng được xem là một trong 3 chiêu thức lợi hại nhất võ lâm, cùng sánh ngang với tuyệt kỹ võ học của Thiếu Lâm và Võ Đang. Sau đây là tên 18 chiêu của Hàng Long Thập Bát Chưởng (không theo thứ tự), 3 chiêu cuối của Hàng Long Thập Bát Chưởng tương truyền đã không còn hiện hữu giang hồ, sau Quách Tĩnh thì các bang chủ về sau của Cái Bang không ai còn luyện được 3 chiêu này.

  1. Kháng Long Hữu Hối 亢龍有悔 lời hào Thượng cửu của quẻ Kiền, có nghĩa: "Rồng bay cao quá ắt sẽ hối hận". Hào dương ở ngôi cao nhất của quẻ thuần dương, như để tâm chìm đắm vào chỗ lưu đãng, hư huyền xa rời mất cõi nhân sinh, ắt sẽ hối hận. Dùng Cang long hữu hối phải có phát có thu, lực đánh ra 10 phần, lưu lại 20 phần, có phát có thu.
  2. Phi Long Tại Thiên 飛龍在天 hào Cửu ngũ của quẻ Kiền, có nghĩa: "rồng bay lên trời". Khí dương đã phát huy rực rỡ, hoặc con người đã khai mở được bản tâm để phát huy diệu dụng.
  3. Kiến Long Tại Điền 見龍在田 lời hào Cửu nhị của quẻ Kiền, có nghĩa là: "con rồng đã hiện ra trên mặt ruộng". Lúc này khí dương bắt đầu được khai mở.
  4. Hồng Tiệm Vu Lục 鴻漸於陸 lời hào Cửu tam quẻ Tiệm, có nghĩa "con chim hồng dần bay đến đậu trên gò đất". Quẻ Tiện còn có tên là Phong sơn tiệm, do được tạo thành bởi quẻ Cấn (là núi) ở dưới và quẻ Tốn (là gió) ở trên. Ý nghĩa tượng trưng của Hồng tiệm vu lục là hào Cửu tam có vị trí trên cùng của quẻ Cấn, là hào dương xử ở ngôi dương, cương kiện năng tiến, do đó mới có tượng "con chim hồng dần bay lên đậu trên gò đất".
  5. Tiềm Long Vật Dụng 潛龍勿用 lời hào Sơ cửu của quẻ Kiền, có nghĩa là: "như con rồng còn đang ẩn náu; không nên dùng". Khi khí dương còn đang tiềm tàng, hoặc bản thể của tâm chưa được phát lột thì không nên hành động.
  6. Lợi Thiệp Đại Xuyên 利涉大川 có nghĩa: "có lợi trong việc lội qua sông lớn", đây là lời thường dùng trong các quái từ, hào từ của Kinh Dịch. "Đại xuyên" là sông lớn, thường được dùng để ví với sự gian nan hiểm trở.
  7. Chấn Kinh Bách Lý 震驚百里 lời quái từ và lời thoán truyện của quẻ Chấn, có nghĩa: "tiếng sấm động vang xa hàng trăm dặm".
  8. Hoặc Dược Tại Uyên 或躍在淵 hào Cửu tứ của quẻ Kiền, có nghĩa: "hoặc nhảy vào vực thẳm". Đây là bước rẽ quyết định, con người từ bỏ thế giới rạch ròi của lý trí để đi vào thế giới huyền vi của tâm thức.
  9. Song Long Thủ Thủy 雙龍取水 Chúng tôi chưa tra cứu được xuất xứ, có lẽ tác giả chỉ thuận tay dùng các thành ngữ quen thuộc trong kho tàng văn học Trung Quốc mà đặt tên, theo kiểu các chiêu "Giao long hỷ thủy", "Lưỡng long tranh châu"... thường gặp các tiểu thuyết võ hiệp chứ không phải là câu được chọn ra từ Kinh Dịch.
  10. Thần Long Bãi Vĩ 神龍擺尾 Nguyên trong Kinh Dịch không có câu này, mà chỉ có câu "Lý hổ vĩ, điệt nhân, hung" của hào Lục tam quẻ Lý, có nghĩa "đi sau cọp, đạp đuôi cọp, bị nó quay lại cắn, nguy hiểm". Kim Dung giải thích tên chiêu này được lấy từ câu trên, để tả khí thế mạnh mẽ và hung dữ của chiêu thức. Người đời sau thấy chữ "hổ" không hợp trong môn chưởng pháp "hàng long" nên đổi thành "Thần long bãi vĩ".
  11. Đột Như Kỳ Lai 突如其來 lời hào Cửu tứ quẻ Ly, có nghĩa: "thình lình ập tới". Trong hào Cửu tam thì sự đe dọa đã bắt đầu hiện ra dưới hình thức ngọn cầu vồng lấn át ánh nắng chiều, và đến hào Cửu tứ thì đột ngột chuyển thành hiện thực.
  12. Thời Thừa Lục Long 時乘六龍
  13. Bái Nhiên Hữu Vũ 密雲不雨 Thanh phong từ lai, bái nhiên hữu vũ.
  14. Tổn Tắc Hữu Phu 損則有孚
  15. Long Chiến Vu Dã 龍戰於野 lời hào Thượng lục của quẻ Khôn có nghĩa: "rồng đánh nhau nơi hoang dã". Âm đã đến lúc cực thịnh nên tranh nhau với Dương.
  16. Lữ sương băng chí 履霜冰絰 Sơn vũ dục lai, lữ sương băng chí, tên đầy đủ là "lữ sương, kiên băng chí", lời hào Sơ lục quẻ Khôn, có nghĩa: "dẫm trên sương, thì biết băng dày sắp đang tới". Đây là tượng của khí âm mới sinh.
  17. Đê Dương Xúc Phiên 羝羊觸藩
  18. Quần Long Loạn Vũ 魚躍於淵

Bộ chưởng pháp này là võ công chí cương của thiên hạ, bao đời Bang Chủ Cái Bang nhờ nó mà thành danh giang hồ, uy lực tuỳ theo người sử dụng.

Trích dẫn từ lời tác giả Kim Dung: Những cao thủ về môn chưởng pháp này có thể kể là Hỏa Vinh, Tiêu Phong, Hồng Thất Công, Quách Tĩnh. Tiếc thay, từ sau thời Anh hùng xạ điêu, vật đổi sao dời Hàng Long Chưởng cũng theo đó mà thất truyền cùng với sự suy vi của Cái Bang. Đến thời Gia Luật Tề thì không còn học nổi toàn bộ... Nhớ lại sau này bang chủ Cái Bang Sử Hoả Long chỉ tập thành có 12 chiêu mà tiếc cho Tiêu Phong 1 thân anh hùng lại vùi thây nơi hiểm địa...

Cái Bang Bổng Pháp - Đả cẩu bổng pháp

Tổ sư khai môn lập phái của Cái Bang thật lạ, một mặt sử dụng tên một con linh vật, Rồng để đặt tên cho chưởng pháp (Hàng Long thập bát chưởng) mặt khác sử dụng tên một con vật tầm thường, Cẩu để gọi môn Bổng Pháp chí bảo trấn bang...

Như ta đã biết, Đả cẩu bổng pháp gắn liền với cây Đả Cẩu Bổng danh lừng thiên hạ. Tương truyền tất cả các Bang Chủ Cái Bang khi tiếp nhiệm trọng trách đều được Bang Chủ tiền nhiệm dạy cho môn võ công thần diệu này. Nhưng có lẽ ít ai biết được hình dáng thực sự của cây Đả cẩu Bổng. Bởi nó dài 3 thước lẻ 7 phân, hình thẳng và làm bằng trúc xanh. Còn Đả Cẩu Bổng của Bang Chủ thì làm bằng Lục ngọ, có màu xanh như trúc vậy. Một cây gậy tầm thường như vậy nhưng lại có quyền lực tối cao, có thể sai khiến hàng vạn vạn Bang Chúng dưới quyền.

Tiếp theo là bàn về Đả Cẩu Bổng Pháp, lộ Bổng Pháp này gồm 36 chiêu chia theo 8 chữ khẩu quyết: buộc, đập, trói đâm, khều, dẫn, khoá, xoay. Tuỳ tình hình địch thủ và gia số võ công mà sử dụng một trong 8 chữ khẩu quyết này là có thể khắc địch chế thắng. Điểm lợi hại của Bổng Pháp này là người võ công kém hơn khi đụng đối thủ mạnh cũng có thể chiến thắng nổi, chiêu thức Bổng Pháp biến ảo tinh diệu tuyệt kì. Có thể điểm sơ sơ qua vài chiêu:

1. Ngao Khẩu Đoạt Trượng (dùng cướp gậy)

2. Áp Thiên Cẩu Bối (khẩu quyết chữ Khoá)

3. Bổng Đả Song Khuyển (chữ Đập)

4. Bát Thảo Tầm Xà (chữ Đâm)

5. Lục Phản Cẩu Điện (chữ Đâm)

6. Bát Cẩu Triều Thiên (chữ Khoá)

Người có thể sử dụng thuần thục Đã Cẩu Bổng Pháp lại là nữ bang chủ đầu tiên của Cái Bang, đồng thời cũng là bang chủ đời 19 của Cái Bang: Hoàng Dung.

Nói đến Cái Bang là ta nói nghĩ ngay đến "Thiên Hạ Đệ Nhất Bang", nghĩ đến các nhân vật Hỏa Vinh, Kiều Phong (Tiêu Phong), Hồng Thất Công, Quách Tĩnh.... Ngoài danh hiệu "Thiên Hạ Đệ Nhất Bang" ra, ta còn dễ dàng liên tưởng đến Hàng Long Thập Bát Chưởng, Đả cẩu bổng pháp. Đệ tử Cái Bang phân bố khắp nơi, đông tây nam bắc đâu có ăn xin, là nơi đó có phân đà của Cái Bang.

Võ công khác